Huyệt mả, (mộ, mồ mả) người Hê-bơ-rơ
khác huyệt mả các dân tộc khác. Họ đục một huyệt mả trong sườn núi đá hay ở một
tảng đá; hoặc dùng một hang đá thiên nhiên trong vườn họ (SaSt 23:9,
EsIs 22:16, Mat
Mt 27:60,
GiGa 11:38). Mỗi gia đình đều lo có một huyệt mả cho người
trong nhà. Họ đục trước một huyệt mả như các cụ chúng ta xưa lo vậy.
Giô-suê được chôn ở Thim-mát Xê-rách, trên núi Ép-ra-im (Gios Gs 24:30); Sa-mu-ên được chôn tại Ra-ma (ISa1Sm 25:1).
Chúa Giê-xu được chôn trong mộ (huyệt) của Giô-xép A-ri-ma-thê đã đục trước, hiện còn ở Giê-ru-sa-lem là mộ trống không vì Chúa đã phục sinh. Tháng 4 năm 1974, Tôi (tác giả Từ điển nầy) được ơn Chúa cho đến thăm mộ Chúa, đi vào mộ và thấy chỗ Ngài nằm trống không. Tân ước dùng từ Hy văn Mnêma, mnemeion và taphos đầu có nghĩa chỗ chôn người chết (Thi Tv 5:9, Gie Gr 5:16, LuLc 11:44, RoRm 3:13).
Giô-suê được chôn ở Thim-mát Xê-rách, trên núi Ép-ra-im (Gios Gs 24:30); Sa-mu-ên được chôn tại Ra-ma (ISa1Sm 25:1).
Chúa Giê-xu được chôn trong mộ (huyệt) của Giô-xép A-ri-ma-thê đã đục trước, hiện còn ở Giê-ru-sa-lem là mộ trống không vì Chúa đã phục sinh. Tháng 4 năm 1974, Tôi (tác giả Từ điển nầy) được ơn Chúa cho đến thăm mộ Chúa, đi vào mộ và thấy chỗ Ngài nằm trống không. Tân ước dùng từ Hy văn Mnêma, mnemeion và taphos đầu có nghĩa chỗ chôn người chết (Thi Tv 5:9, Gie Gr 5:16, LuLc 11:44, RoRm 3:13).