Thánh Kinh Phong Tục- Chương Thứ Hai

Khí Hậu, Thời Tiết, Phong Cảnh

"Phong tục là nguyên tố thứ tư trong vũ trụ" Tục-ngữ xứ Sy-ri.


            Dẫu chịu ảnh hưởng lớn do kỹ nghệ và các chế độ, những cuộc sinh hoạt trong xứ Pha-lê-tin vẫn còn có quan hệ mật thiết với những điều kiện thiên nhiên ở ngoài quyền kiểm soát của loài người, tỉ như khí hậu và thời tiết. Người A-rạp ngày nay nhận biết lẽ đó khi họ nói rằng vũ trụ cấu tạo bằng đất, khí trời, lửa, nước, - và phong tục. Vì Kinh Thánh thường nhắc đến khí hậu và phong cảnh xứ Pha-lê-tin, nên nếu ta biết rõ hai cái đó, ắt sẽ để ý đến và biết đúng nghĩa của Kinh Thánh.
            1. Khí hậu.-  Pha-lê-tin là một xứ có mặt trời chói sáng, ai nấy có thể sống nơi không khí quang đãng. Dẫu mấy tiếng thường dùng: "Từ Đan đến Bê-e-sê-ba" chỉ bao hàm một miền đất nhỏ bằng quận Galles của nước Anh, nhưng thời thiết thay đổi khác nhau nhiều lắm, vì đất đai cao, thấp không chừng: Núi Hẹt-môn phủ tuyết giữa mùa hạ, cao hơn mặt biển ngót ba ngàn thước; còn Biển Chết lại thấp hơn mặt biển hơn 400 thước. Nhưng, trên hết mọi sự, Pha-lê-tin có đặc sắc là một xứ có bầu trời xanh biếc và ánh nắng mặt trời. Tuyết không sa xuống trên đồng bằng dọc theo bờ biển, và mặt trời chói sáng không dứt từ đầu tháng năm đến cuối tháng chín. Vậy nhơn dân có hội hợp rất đông đảo tại Giê-ru-sa-lem để dự lễ này lễ khác, và cũng có thể ở lâu với Đấng Christ trong các nơi vắng vẻ.
            2. Thời tiết. -  Tính trong một năm, thì tháng ngày kế tiếp nhau mà nóng hoặc lạnh cũng như ở nước Anh, duy ở xứ Pha-lê-tin thì bao giờ cũng nóng hơn nhiều. Bốn mùa không phân chia rõ rệt như trong các xứ ở quá về phương Bắc. Các đặc sắc hệ trọng một năm thì ta đã thấy trong lời Đức Chúa Trời hứa với Nô-ê - "Mùa gieo giống cùng mùa gặt hái, lạnh và nóng, mùa hạ cùng mùa đông" (Sáng thế ký 8:22). Mùa không mưa chiếm hết từ năm đến bảy tháng, và dân A-rạp thường nói một năm là mùa hạ và mùa đông. Muà xuân có tên đặc biệt là "mùa lớn lên", nhưng mùa thu thì khác bên Âuchâu: Ở Âu châu thì khi ấy quả nho, quả ô-li-ve và các thứ quả khác chín, nhưng ở xứ Pha-lê-tin mùa gặt ngũ cốc lại vào tháng năm và tháng sáu. Đó chính là mùa gặt hái có nói đến ở Giô-suê 3:15 và I Sa-mu-ên 12:17. Cũng cách ấy, khi nói đến mùa gặt, đấng tiên tri cũng theo thứ tự của sự vật, vì ông nói rằng: "Mùa gặt đã qua, mùa hạ đã hết" (Giê-rê-mi 8:29).
            3. Tháng.-  Luận qua về mỗi tháng, chúng ta sẽ thấy một năm đem lại những gì cho người già, người trẻ trong xứ Pha-lê-tin.
                        (1)  Tháng giêng.- Tháng này lạnh hơn hết, có những ngày tối tăm hơn hết và những trận mưa nặng hạt hơn hết. Mưa sa trên núi Li-ban và trên những dãy núi cao hơn hết, và cứ đóng ở đó cho đến khi tiết nóng tháng ba, tháng tư làm cho tan chảy, đổ vào các ngọn suối cho dân chúng dùng trong mùa hạ.
                        (2)  Tháng hai.-  Mưa dào và trời nắng kế tiếp nhau mau chóng. Người A-rạp gọi tháng hai là "anh một mắt", - là bộ mặt một bên tối, một bên sáng. Họ cũng nói rằng: "Tháng hai chẳng có luật lệ nào cả"; và rằng: "Mặc dầu tháng hai có bảo tố kinh động, nhưng nó cũng có mùi vị mùa hạ". Cây hạnh nhân trổ hoa, và người ta cũng gieo lúa mạch nha.
                        (3)  Tháng ba.-  Gió to nhưng cũng nắng hơn. Mưa dào tháng ba tháng tư tức là "mưa cuối mùa" của Kinh Thánh, (xem Giê-rê-mi 3:3; 5:24), thường không thấu đến rễ đâm sâu của các cây có quả, nhưng nhuần tưới những cánh đồng lúa mạnh nha và lúa miến trước khi nó chín trắng xóa, sẵn sàng để gặt hái. Nhưng có khi tháng nầy trời mưa to hơn hết. Cây mơ cũng "trang sức màu trắng" như cây hạnh nhân, chẳng khác chi những hàng rào sơn tra tử (aubépine)ở nước Anh vậy.
                        (4)  Tháng tư.-  Tháng này hoa đua nở, đất đai trông xanh tươi và đẹp đẽ hơn mùa nào khác trong cả năm. Thỉnh thoảng luồng gió nóng và hanh từ sa mạc xứ Sy-ri thổi vào, có khi suốt ba ngày, làm cho tuyết tan chảy và mọi loài thảo mọc mau lớn. Mùa gặt bắt đầu ở thung lũng sông Giô-đanh và ở đồng bằng gần bờ biển. Các thứ cây có quả - như táo, lựu, ô-li-ve, v. v... - thường nẩy hoa và lá tươi.
                        (5)  Tháng năm.-  Mặt trời nóng hơn; không mưa chừng năm tháng. Hoa rụng, cỏ khô. Mùa gặt ở đồng bằng và thung lũng. Các quả mùa xuân đã chín, tỉ như hạnh nhân, mơ và mận. Cây nho trổ hoa.
                        (6)  Tháng sáu.-  Mùa gặt cứ tiến hành ở miền đất cao hơn. Đất đai trơ trụi và cháy xém, trừ những khu cây có quả và cây nho, những vườn tược có tát nước để trồng các thứ rau.
                        (7)  Tháng bảy.-  Gió mát hiu hiu từ phương tây thổi lại, là dịu bớt tiết nóng mùa hạ. Tháng nầy và tháng sau, dân quê bận rộn đạp lúa.
                        (8)  Tháng tám.- Tháng nóng nhất trong cả năm; ở miền đồng bằng gần biển thì giữa trưa, nơi bóng rợp trung bình là 36 độ (96,75 độ F). Còn ở biển Ga-li-lê và thung lũng của hạ lưu sông Giô-đanh, hàn thử biểu còn lên cao hơn nhiều. Trái nho, vả, đào, táo và lê đều chín.
                        (9)  Tháng chín.-  Tiết nóng mùa hạ thường dội lên vì cớ những luồn gió từ sa mạc thổi vào lâu hơn lúc mùa xuân; hàn thử biểu lên từ 38 đến 40 độ (100,50 - 104,25 độ F). Người ta phơi vả khô để đến mù đông đem dùng; nho cũng phơi khô, làm nước đường và rượu. Lựu mướp và chuối đều chín. Sau cơn hạn hán suốt mùa hạ, đến cuối tháng này bắt đầu có mưa dào, rồi có chừng nửa tháng nắng và nóng.
                        (10)  Tháng mười.- Hết mùa hái nho và hái vả. Người ta hái quả ô-li-ve, giết chiên béo, tích trử lương thực để dùng trong mùa đông. Mía và quả chà là đương chín. Mưa dào nặng hạt hơn, tức là "mưa đầu mùa" trong Kinh Thánh (xem Giê-rê-mi 5:24). Bắt đầu cày ruộng, vì đất cứng và khô đã có nước mưa làm cho mềm.
                        (11)  Tháng mười một.-  Cứ cày ruộng. Gieo lúa mạch nha và lúa miến.
                        (12)  Tháng chạp.- Mưa to hơn, tiết trời mát hơn. Cuối tháng có tuyết trên núi Li-ban. Cam, chanh và chấp đều chín. Tỉa sửa cây nho tháng nầy và tháng sau.
            4. Ngày và đêm.-  Trong xứ Pha-lê-tin, ngày ngắn nhất và dài nhất trong năm hơn kém nhau chừng bốn giờ. Lúc mặc trời mọc là một lúc đặc biệt, thay đổi cảnh vật rất mau chóng, không ai lầm lẫn được. Các ngôi sao biến đi mau chóng, phía trời đông nhuộm màu hồng, có nhiều tia sáng đỏ sẫm phát ra từ một trung tâm màu vàng mỗi lúc mỗi sáng láng hơn. Rồi đột nhiên - người ta tưởng có tiếng nổ theo sau - mặt trời nổi bật lên sau dẫy đồi, trông như một đĩa tròn sáng rực trên từng trời không mây. Liền đó "bóng tối trốn đi", biến mất không ai thấy, dường như bị khám phá khi đương làm việc phi pháp. Ta có thể thấy một đường vụt mau phân cách ánh sáng với bóng tối: Ánh sáng rực rỡ, chói lọi, còn bóng tối buồn thảm, mập mờ. Đương khi mặt trời lên cao hơn mau chóng, chiếu tia sáng trên đồng bằng, thung lũng và trũng núi, thì ta thấy những chòm cây thông, những sườn núi trồng ô-li-ve, những làng xóm màu xám đột nhiên hoạt động dường như mới ngủ dậy. Những đoạn Kinh Thánh nói đến ánh sáng hiện ra và bóng tối tiêu tan (hoặc trong cõi thiên nhiên hay trong cõi thiêng liêng) đều do cảnh mặt trời mọc ở phương Đông. Những đoạn ấy có sức mạnh hầu như không thể phát biểu ở các nước phương bắc, vì hừng đông ở đó tuy đẹp đẽ theo cách riêng, nhưng chỉ dần dần biến thành một vùng sáng dịu hơn. Trong Ê-sai 60: 1, 2, có chép: "Hãy dấy lên và sáng lòe ra! Vì sự sáng ngươi đã đến!" Trong câu nầy ta thấy sức mạnh của mặt trời mọc, một tiếng kêu gọi thình lình, một sự phân cách giữa sáng với tối rất rõ rệt. Cũng hãy xem Thi Thiên 139:12; Ê-sai 58:8; Ma-thi-ơ 5:14; Công vụ các sứ đồ 26:18; II Cô-rinh-tô 4:4; 6:14; Ê-phê-sô 5:8. Cũng một thể ấy, lời chúc phước của A-rôn (Dân số Ký 6:24-27) là do cách thức mặt trời mọc; nó bao gồm ý rằng linh hồn được cùng một thứ phước lành mà mặt trời ban cho thế giới. Đối với tinh thần phương Đông. thì ánh sáng mặt trời có nghĩa là sự Sáng, sự Sống và sự Thanh sạch. Về sự thanh sạch họ có một tục ngữ rằng: "Con mắt của mặt trời không cần màn che," nghĩa là mặt trời không cần giấu tội lỗi vì nó trong trẻo cực điểm. Đó cũng là ý tưởng chính trong Thi Thiên 19:7, 8, tại đó tác giả so-sánh luật pháp của Chúa với ánh sáng mặt trời. Ánh sáng mặt trời cũng làm thí dụ tốt đẹp về người cai trị công bình (II Sa-mu-ên 23:4).
            Từ 12 giờ trưa đến 3 giờ chiều là lúc nóng hơn hết (Ma-thi-ơ 20:12). Các tia sáng gay gắt từ trên chiếu xuống, ánh sáng từ đất lổn nhổn những đá rọi lên, không khí rung rinh, núi non vì sức nóng nên hình như dẹp xuống. Cây cối dủ xuống, trông như uể oải; chim thôi hót líu lo trong những cành cây; thỉnh thoảng ve sầu lại ngừng tiếng kêu ra rả, làm cho có sự yên tỉnh kinh dị. Gã chăn chiên thâu nhóm bầy chung quanh mình ở dưới bóng cây hột giẻ, hoặc cầm sáo thổi một lúc rồi ngủ quên dưới bóng vần đá: giờ ấy làm linh dộng và thực hiện nhiều câu, nhiều lời bóng bẩy thường dùng. Đối với một người nghỉ trong bóng mát để khỏi nóng bức gay gắt, thì những lời nầy có một ý nghĩa mới mẻ, dồi dào - "Ngài bổ lại linh hồn tôi" (Thi Thiên 23:3); "Ở dưới bóng của Đấng Toàn năng" (Thi Thiên 91:1); "Mặt trời sẽ không gọi ngươi lúc ban ngày" (Thi Thiên 121:6); "Chói lói hơn mặt trời" (Công vụ các sứ đồ 26:13); "Cũng không có mặt trời, hoặc cơn nắng gắt nào hại mình" (Khải huyền 7:16).
            Càng về chiều, không khí càng mát mẻ; các sắc đẹp đẽ bấy giờ thế chổ màu xám và màu cánh gián, nhứt là ở nơi mà ánh sáng dội xuống núi Li-ban cao chót vót, các đồi chung quanh hồ Ga-li-lê và các gềnh đá sừng sững phía sau Biển Chết.
            Mặt trời lặng cũng mau chóng như nó mọc. Đương khi ngắm xem vầng thái dương chìm đắm xuống Địa-trung-hải, thì lời dản dị này lại xuất hiện trong trí: " Mặt trời biết giờ lặn" (Thi Thiên 104:19). Và mỗi người trong xứ biết điều đó, chẳng những nông phu ở giữa đồng ruộng, song cả đến người thợ làm việc trong phố xá chật hẹp. Không cần có đồng hồ của thành phố hoặc chuông của công xưởng để báo thì giờ. "Bấy giờ loài người đi ra, đến công việc mình, và làm cho đến chiều tối" (Thi Thiên 104:23). Khi mặt trơi lặn, thì công việc nào cũng thôi cả.
            Khoảng thì giờ ngắn ngủi trước và sau khi mặt trời lặn tức là lúc mát buổi chiều. Khi ấy gió khô hanh bắt đầu thổi, và chỉ trong chóc lát đã mát hơn luồn gió ẩm hiu hiu từ biển thổi vào lúc ban ngày. Y-sắc đã đi hưởng ngọn gió ấy. Hiện nay ở thành Beyrouth, Đa-mách, Si-đôn và Giê-ru-sa-lem, vào giờ ấy cư dân cũng còn đi chơi để giải trí và bổ sức.
            "Các thú rừng" (Thi Thiên 104:20) bây giờ phần nhiều đã chịu số phận của rừng xanh; nhưng trong các làng miền núi, khi bóng tối giăng trên thung lũng, thì những con chó rừng bò ra, gầm gừ nhau và khiêu khích đàn chó trong làng.
            Nửa giờ sau khi mặt trời lặn, các ngôi sao hiển hiện và lắp lánh trên khung trời không một án mây thưa. Nhìn lên các ngôi sao, thì thấy trời tối hơn, sao lớn hơn, êm dịu hơn và sáng láng hơn ở những nước phương Bắc. Các ngôi sao dường như "bước ra" và "nhìn xuống" để được người ta chú ý đến mình. Khi Gia-cốp nằm nghỉ ở Bê-tên, chơn đau và thân mỏi, dưới vùng trời bao la, thì nào có gì lạ, lời hứa của Đức Chúa Trời có hình và có nghĩa nhờ hai vật mà ông đã bắt buộc phải chú ý đến - bụi mù mịch trên mặt đất và vinh quang của các ngôi sao trên trời. Khách bộ hành trong sa mạc thường thích đi ban đêm vì mát mẽ và bình yên hơn. Cũng như các bác sĩ, họ cũng còn nhờ các ngôi sao dắt dẫn.
            Nhứt là về mùa thu, mặt trang chói sáng lạ lùng, nên lời hứa: "Mặt trăng cũng không hại ngươi ban đêm" (Thi Thiên 121:6) có nhiều ý nghĩa quí báu trong một xứ tại đó có sự nguy hiểm vì ngủ dưới tia sáng mặt trăng và tại đó khách bộ hành thỉnh thoảng phải dương dù để che khỏi ánh sáng gay gắt của mặt trăng.
Vì người phương Đông tính thì giờ theo tháng của mặt trăng, nên lúc mặt trời lặn là khởi điểm và tận điểm của một ngày. Như vậy, ban đêm thứ bảy là buổi tối thứ sáu ở nước Anh. Giờ làm việc hằng ngày cứ tính từ lúc mặt trời mọc; như vậy, tính lúc mặt trời mọc là sáu giờ, thì giữa trưa là giờ thứ sáu, còn giờ thứ mười một là một giờ trước khi mặt trời lặn. Thì giờ ít thay đổi từ ngày nọ qua ngày kia, còn tối với sáng thì vụt chốc thay đổi, đến nỗi những sự hẹn hò vào lúc mặt trời mọc và mặt trời lặn đều đúng lắm, khác hẳn ở một xứ nhiều mây và có giờ hoàng hôn dai dẳng.

Hội Thánh KiềnBái's blog© 2013. Được tạo và lưu trữ bởi Bùi Qúy Đôn. Tài liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.